Đội tuyển bóng đá quốc gia Ukraina (tiếng Ukraina: збірна України з футболу) là đội tuyển cấp quốc gia của Ukraina do Liên đoàn bóng đá Ukraina quản lý.
Trận thi đấu quốc tế đầu tiên của đội tuyển Ukraina là trận gặp đội tuyển Hungary là vào năm 1992. Thành tích tốt nhất của đội cho đến này là lọt vào tứ kết của World Cup 2006.
Sau khi Liên Xô tan rã, đội tuyển Ukraina có trận thi đấu đầu tiên gặp Hungary ngày 29 tháng 4 năm 1992. Trước khi Liên Xô tan rã, các cầu thủ Ukraina thi đấu cho đội tuyển Liên Xô. Một vài cầu thủ xuất sắc của Ukraina ở đầu thập niên 1990 (như Andrei Kanchelskis, Viktor Onopko, Sergei Yuran và Oleg Salenko) đã quyết định khoác áo đội tuyển Nga vì đó là đội tuyển kế tục Liên Xô, trong khi mãi đến năm 1994 Ukraina mới tham dự giải đấu quốc tế đầu tiên.
Vào năm 2006, Ukraina mới lọt được vào 1 kỳ bóng đá quốc tế đầu tiên, đó là World Cup 2006 ở Đức. Nhưng ngay trong lần đầu có mặt, Ukraina đã gây sốc khi lọt tới tứ kết, và chỉ thua Italia (sau đó là nhà đương kim vô địch giải đấu) của Marcello Lippi với tỉ số 3-0. Nhưng trong vòng loại World Cup 2010 ở Nam Phi, họ bị chính kẻ thù xưa là Hy Lạp đánh bại 1-0 ngay trên sân nhà, dù hòa 0-0 tại Athens. Kết quả này đã chấm dứt giấc mơ đi tiếp vào kỳ World Cup lần thứ hai của Ukraina. Đội đã 2 lần tham dự giải vô địch bóng đá châu Âu là vào các năm 2012 và 2016, tuy nhiên đều không vượt qua được vòng bảng.
Giải vô địch thế giới[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Vòng đấu | Thứ hạng | Trận | Thắng | Hoà* | Thua | Bàn thắng | Bàn thua |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1998 đến 2002 | Không vượt qua vòng loại | |||||||
2006 | Tứ kết | 8 | 5 | 2 | 1 | 2 | 5 | 7 |
2010 đến 2018 | Không vượt qua vòng loại | |||||||
2022 đến 2026 | Chưa xác định | |||||||
Tổng cộng | 1/3 | 1 lần tứ kết | 5 | 2 | 1 | 2 | 5 | 7 |
Giải vô địch châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]
Từ 1960 đến 1992 Ukraina không tham dự, là một phần của Liên Xô. Ukraina đã từng hai lần tham dự hai kỳ Euro 2012 và Euro 2016, tuy nhiên đều không vượt qua được vòng bảng.
Danh sách đội hình dưới đây được triệu tập cho trận giao hữu gặp Ý và UEFA Nations League 2018-19 gặp Cộng hòa Séc vào các ngày 10 và 16 tháng 10 năm 2018.[4]
Số liệu thống kê tính tới ngày 16 tháng 10 năm 2018, sau trận đấu với Cộng hòa Séc.[6]
Triệu tập gần đây[sửa | sửa mã nguồn]
Đội hình dưới đây được triệu tập trong vòng 12 tháng.
Chú thích:
- INJ = Rút lui vì chấn thương.
- PRE = Đội hình sơ bộ.
- RET = Đã chia tay đội tuyển quốc gia.
Chơi nhiều trận nhất[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến ngày 16 tháng 10 năm 2018[cập nhật]
Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu cho đội tuyển quốc gia.
Comments
Post a Comment